Thiết kế Fletcher_(lớp_tàu_khu_trục)

Lớp Fletcher là thế hệ tàu khu trục đầu tiên được thiết kế sau khi những giới hạn về kích cỡ tàu chiến của một loạt các hiệp ước hải quân trước đây mất hiệu lực. Sự phát triển về thiết kế một phần là giải pháp cho câu hỏi lớn luôn ám ảnh thiết kế của Hải quân Hoa Kỳ: tầm xa hoạt động cần thiết cho các chiến dịch tại Thái Bình Dương. Chúng phải mang theo không ít hơn năm khẩu pháo 5 in (127 mm) và mười ống phóng ngư lôi trên trục giữa ở sàn tàu, cho phép chúng đáp trả mọi thiết kế nước ngoài ở điều kiện ngang bằng. So sánh với những thiết kế trước đây, lớp Fletcher lớn hơn, cho phép chấp nhận việc bổ sung sau này hai khẩu đội Bofors 40 mm phòng không bốn nòng cũng như sáu khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi. Việc bổ sung cho dàn hỏa lực phòng không này đòi hỏi việc loại bỏ dàn ống phóng ngư lôi năm nòng phía trước, một thay đổi được thực hiện trong chương trình đối phó với máy bay kamikaze vào ngày 4 tháng 4 năm 1945.[6]

Bản vẽ kỹ thuật lớp tàu khu trục Fletcher

Chúng cũng ít nặng đầu hơn so với những lớp trước, cho phép chất thêm thiết bị và vũ khí bổ sung mà không cần những thay đổi thiết kế lớn. Chúng bắt kịp nhịp độ sản xuất của Hoa Kỳ một cách kịp thời, trở thành một thiết kế tàu khu trục “tiêu chuẩn” khi chỉ có những cải biến nhẹ dựa trên lớp Fletcher: lớp Allen M. Sumnerlớp Gearing được tiếp nối trong chiến tranh.[3] Những phản hồi đầu tiên về thiết kế vào mùa Thu năm 1939 từ những bản câu hỏi được gửi đến các văn phòng thiết kế và Phòng Tác chiến Hải quân. Các tham số thiết kế là vũ khí mong muốn trên lớp tàu khu trục tiếp theo; do đó bảng câu hỏi bao gồm bao nhiêu pháo, ngư lôi và mìn sâu được xem là thỏa đáng. Một câu hỏi khác là trọng lượng thiết kế lên đến mức nào để trở thành một mục tiêu cho ngư lôi thay vì một hệ thống phóng ngư lôi ? [7] Câu trả lời là vũ khí bao gồm năm pháo 5 in (127 mm) lưỡng dụng, mười hai ngư lôi và 28 mìn sâu là lý tưởng, trong khi một thiết kế 1500 tấn trong quá khứ được cho là không phù hợp. Nhu cầu về tốc độ tối đa thay đổi trong khoảng 35–38 kn (65–70 km/h), và những khiếm khuyết của lớp Sims trước đây vốn nặng đầu và có những đồ dằn bằng chì để hiệu chỉnh, khiến cho thiết kế của Fletcher phải mở rộng mạn thuyền thêm 18 in (0,46 m).[8] Giống như mọi thiết kế tàu khu trục sàn phẳng trước đây của Hoa Kỳ, khả năng đi biển bị ảnh hưởng. Điều này được giảm nhẹ do chúng được bố trí hoạt động tại Thái Bình Dương, nơi biển tương đối lặng.[5]

Để đạt được tốc độ 38 kn (70 km/h) với sự gia tăng thêm 500 tấn trọng lượng choán nước, công suất trục của hệ thống động lực gia tăng từ 50.000 shp (37.000 kW) lên 60.000 shp (45.000 kW) so với các lớp BensonGleaves dẫn trước. Lớp trang bị nồi hơi bao bọc bởi không khí, tạo ra áp suất hoạt động 600 psi ở nhiệt độ 850 °F, cùng một máy phát điện diesel khẩn cấp tạo ra 80 kW điện năng. Thường nồi hơi Babcock & Wilcoxturbine hơi nước hộp số General Electric được trang bị, cho dù các thiết kế và nhà sản xuất khác cũng được sử dụng để tối ưu tốc độ sản xuất.